XỬ TRÍ SƠ CỨU ĐÚNG CÁCH MỘT SỐ TẠI NẠN NGUY HIỂM:
NGẠT NƯỚC
Tác giả : BS. BẠCH VĂN CAM
(Trưởng khối Hồi sức cấp cứu - BV. Nhi Đồng I)
(Có sự hiệu chỉnh để rõ ràng và phù hợp bởi Phong Linh)
Ngạt nước là tình trạng nạn nhân bị ngạt do hít phải nước khi chìm trong nước, tuy nhiên có một số người bị ngạt do sự co thắt thanh quản.
Ngạt nước thường xảy ra ở 2 nhóm tuổi: Tuổi thiếu niên do tính thích mạo hiểm và tuổi mới biết đi do tính tò mò, hiếu kỳ mà không có sự giám sát của người lớn.
1. Nguyên nhân gây ngạt nước
Ngạt nước xảy ra do các tai nạn như:
- Trẻ nhỏ bị chìm trong các vật chứa nước như giếng nước, thùng nước, chậu nước, bồn tắm, bể cá...
- Trẻ không biết bơi bị rơi xuống ao, hồ, kênh, rạch, sông...
- Người biết bơi nhưng do bị kiệt sức, vọp bẻ, động kinh...
Sơ cứu đúng cách người bị ngạt nước Sơ cứu tại chỗ và đúng kỹ thuật là những yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của người bị nạn. Cần lưu ý là MỘT NGƯỜI ĐÃ NGƯNG THỞ CHỈ SỐNG THÊM KHOẢNG 5 PHÚT, NHƯNG KHẢ NĂNG DI CHỨNG BẠI NÃO KHÁ CAO SAU 2 PHÚT, do vậy phải hành động thật nhanh và bằng mọi cách tiến hành hà hơi thổi ngạt ngay cho nạn nhân. Tốt nhất là phải cấp cứu thổi ngạt ngay khi vừa đưa đầu người bị nạn lên khỏi mặt nước, trước khi đưa vào bờ.
2. Cách sơ cứu đúng như sau:
- Nhanh chóng đưa người bị nạn ra khỏi mặt nước bằng cách đưa cánh tay, cây sào dài cho nạn nhân nắm, ném phao hoặc vớt người bị nạn lên (nên đọc để biết cách cứu nạn nhân chết đuối, nếu không chính bạn cũng sẽ không cứu được bản thân mình).
- Đặt người bị nạn nằm ở chỗ khô ráo, thoáng khí. Cởi bỏ tất cả những phần quần áo thắt chặt.
- Nếu người bị nạn bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có còn thở hay không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không di động tức là người bị nạn đã ngưng thở, đầu tiên hãy thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm.
* Cách thổi ngạt : nâng cổ nạn nhân cho đường khí quản được thẳng và miệng mở, một tay kéo cằm nạn nhân cho miệng mở ra, một tay bịt mũi nạn nhân tránh khí thoát ra. Hít một hơi thật sâu, áp miệng vào miệng nạn nhân, thổi mạnh, ánh mắt hướng về phía lồng ngực nạn nhân, quan sát xem ngực có phồng lên theo nhịp thổi hay không để đánh giá mức độ thành công (xem hình)
Nếu sau khi thổi ngạt, người bị nạn vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê thì xem như tim của nạn nhân đã ngưng đập (riêng nhân viên y tế xác định tình trạng ngưng tim của nạn nhân bằng cách bắt mạch cánh tay, mạch cổ hoặc mạch bẹn xem có đập không, nếu không bắt được mạch tức là tim đã ngưng đập), cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay.
* Cách ấn tim ngài lồng ngực: Chú ý lưng nạn nhân phải được đặt trên nền cứng phẳng, ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau (xem hình):
- Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 khoát ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).
- Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 khoát ngón tay. Chú ý sử dụng cả sức nặng thân người khi ấn.
Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8 tuổi - 5 lần ấn tim / 1 lần thổi ngạt) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi hoặc người lớn).
Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này trên đường chuyển người bị nạn tới cơ sở y tế, cho đến khi người bị nạn tự thở lại được hoặc chắc chắn rằng người đó đã chết, việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn.
Nếu lồng ngực còn di động tức người bị nạn còn tự thở được, hãy đặt nạn nhân ở tư thế an toàn, nghĩa là cho nằm nghiêng một bên để nếu người đó có nôn ói thì chất nôn dễ dàng thoát ra ngoài và không trào ngược vào phổi gây viêm phổi.
3. Những điều không nên làm trong sơ cứu người bị ngạt nước
Phần lớn người bị nạn tử vong hoặc bị di chứng não do thiếu oxy vì không được sơ cứu hay sơ cứu không đúng cách trước khi đưa đến cơ sở y tế. Do đó, cần tránh những cách xử trí không đúng sau đây:
- “Xốc nước”: Động tác dốc ngược để xốc nước là không cần thiết và không nên thực hiện vì thông thường nước vào phổi rất ít, chứ không phải vào đầy phổi như người ta thường nghĩ. Lượng nước rất ít này sẽ được tống xuất ra ngoài khi người bị nạn tự thở lại. Ngoài ra, việc xốc nước còn làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt và làm tăng nguy cơ hít sặc nước vào phổi.
- Không thực hiện việc thổi ngạt và ấn tim cho người bị nạn đang ngưng thở, ngưng tim tại nơi xảy ra tai nạn hoặc trong lúc vận chuyển tới cơ sở y tế, hoặc có thực hiện nhưng không đúng cách như: dang 2 tay nạn nhân sang 2 bên rồi ép vào ngực để ấn tim mà không thổi ngạt, động tác sơ cứu này không nên thực hiện vì không hiệu quả. Việc chậm trễ trong cấp cứu thổi ngạt - ấn tim làm cho não và các cơ quan bị thiếu oxy kéo dài, có thể gây chết tế bào não, dẫn đến tử vong hoặc di chứng não nặng nề.
- Hơ lửa hoặc “lăn lu” người bị nạn (để nạn nhân nằm vắt ngang qua lu rồi đốt lửa phía trong lu) vì nghĩ rằng sẽ giúp làm ấm người bị nạn, nhưng thực ra cách này sẽ làm nặng thêm tình trạng của nạn nhân vì họ có thể bị phỏng, và quan trọng nhất là làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt.
4. Phòng ngừa ngạt nước
- Không để trẻ nhỏ ở nhà một mình. Đậy kín các vật chứa nước như giếng nước, bồn tắm, thùng nước, chậu nước...
- Không cho trẻ chơi một mình gần ao, hồ, kênh, rạch, sông... - Không cho bệnh nhân động kinh bơi.
- Dạy trẻ học bơi ngay từ khi còn bé, dặn dò trẻ không được bơi ở những nơi có dòng nước chảy nhanh và mạnh.
Sưu tầm và hiệu chỉnh
Phong Linh